Đối với dân tộc ta, chữ hiếu được xem là một trong những
thước đo phẩm chất con người. Và một trong những cách thể hiện
cho trọn chữ hiếu đó là việc thờ cúng tổ tiên, ông bà.
Trong quan niệm dân gian, mặc dù ông bà đã chết nhưng linh hồn
vẫn còn sống về phù hộ cho con cháu mạnh khỏe, làm ăn phát đạt.
“Sự tử như sự sinh, sự vong như sự tồn”, nên những dịp lễ Tết,
người ta hay mời ông bà về chung vui với mình. Đó là sợi dây vô
hình nối giữa người còn sống và người đã chết.
Thờ cúng tổ tiên, ông bà là tấm lòng biết ơn của người còn sống
đối với tiền nhân - những người đã có công sinh thành, dưỡng dục,
dạy dỗ mình nên người. Ngoài ra, nó còn là một nét đẹp truyền
thống, đạo lý sâu xa của dân tộc về việc giáo dục chữ hiếu,
nguồn cội cho cháu con, nhắc nhở họ nhớ về những kỷ niệm, công
đức của ông bà.
Chính vì lẽ đó mà từ nhà giàu sang cho đến gia đình nghèo khó
đều đặt bàn thờ gia tiên ở nơi trang trọng nhất, ngay chính giữa
nhà, như là sự tôn kính tuyệt đối của mình đối với vong linh
những vị tổ tiên trong gia đình.
Theo nhà văn Sơn Nam, ngày xưa ở Nam bộ, cái bàn thờ ông bà còn
gọi là cái giường thờ. Đem cái giường mà cha mẹ thường nằm để
thờ ngay giữa nhà, giữ nguyên vị trí cái ô trầu, cái gối.
Phía trước giường thờ, xưa kia bố trí cái bàn bốn chân. Trên mặt
bàn chưng bộ lư, chân đèn, vùa hương. Gọi đó là cái “bàn nghi”,
để phủ dưới chân bàn dùng tấm vải đỏ, thêu rồng phượng hoặc chữ
Hán, chúc phước.
Lúc cúng giỗ, dọn thức ăn lên giường thờ, trên “bàn nghi” thì
thắp nhang. Nhưng lần hồi, đơn giản hóa, cái giường thờ thu hẹp,
như cái bàn nhỏ chừng 30cm, đủ dọn bốn món cúng.
Ngoài những ngày giỗ, việc cúng tổ tiên còn được tổ chức vào các
ngày đầu năm mới. Đây cũng là dịp cúng long trọng vì con cháu tề
tựu đông đủ.
Đúng giao thừa, người ta đặt những thức cúng lên bàn thờ gia
tiên, thắp hương tưởng niệm, khấn vái, rước ông bà về nhà cùng
con cháu vui xuân. Các ngày tiếp theo, người ta đều cúng cơm cho
đến hết Tết, làm lễ tiễn ông bà thì việc thờ cúng gia tiên trong
ngày Tết mới coi là xong.
Tục rước ông bà của người Nam bộ xưa rất cầu kỳ. Sau khi dọn mâm
cỗ lên bàn thờ, người chủ nhà phải mặc áo dài, khăn đóng, kính
cẩn hai tay bưng khay lễ có trầu, rượu ra tận cổng hoặc phần mộ
để mời tổ tiên vào nhà. Cùng đi có hai đứa trẻ cầm hai cây mía
chừa lá ngọn buộc túm lại, gọi là gậy ông bà. Vào đến nhà, cặp
gậy ông bà được cột đứng hai bên bàn thờ. Người chủ nhà bắt đầu
dâng hương, rót rượu mời tổ tiên và báo cáo ngày hôm sau là ngày
Nguyên đán, mời ông bà cùng về vui với con cháu.
Song song với các sản vật được đặt lên bàn thờ của tổ tiên là
mâm ngũ quả được bày biện gọn gàng, đẹp mắt trên một cái dĩa to,
chiếm một nơi trang trọng ở bàn thờ.
Theo như tên gọi thì mâm ngũ quả phải có đủ 5 loại trái cây.
Việc chọn các loại quả cũng có sự khác nhau theo từng vùng. Có
nơi người ta dùng ý nghĩa của màu sắc để thể hiện quan niệm tốt
lành của mình trong ngày Tết, như: màu xanh tượng trưng cho sức
sống mãnh liệt (chuối xanh), màu vàng tượng trưng cho sự ấm no
(bưởi, đu đủ)... Có nơi lại dùng ý nghĩa tên gọi của từng loại
quả để thể hiện ước vọng của mình trong ngày xuân, như: hồng,
quýt tượng trưng cho sự thành đạt, phật thủ tượng trưng cho sự
an lành…
Riêng ở Nam bộ, mâm ngũ quả vẫn cứ như truyền thống gồm: mãng
cầu, sung, dừa xiêm, đu đủ, xoài, mà quan niệm dân gian thường
gửi gắm một ước mơ đơn sơ: cầu sung vừa đủ xài, hay cầu vừa đủ
xài mà thôi.
Mâm ngũ quả ngày Tết thể hiện sự phong phú của hoa trái thiên
nhiên, thành quả lao động mệt nhọc sau một năm gặt hái. Đồng
thời cũng thể hiện đạo lý nhớ về cội nguồn “ăn quả nhớ kẻ trồng
cây”, có lộc trời thì thành kính dâng lên tổ tiên, tạ ơn trời
đất...
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên ở Việt Nam có truyền thống lâu đời,
là một biểu hiện của văn hóa dân tộc, đến mức nâng lên thành đạo
- đạo thờ ông bà, đạo làm con.
|